Mời các bạn xem lại những hình ảnh được chụp tròn 100 năm trước ở Sài Gòn (khoảng thời gian 1921-1922), phần thứ 3. Qua những tấm ảnh đặc biệt này, bánh xe thời gian như là được xoay ngược lại để chúng ta có thể nhìn được về một thế kỷ trước và ôn cố tri tân.
–
Bên trên là hình ảnh đường Catinat và Continental Palace năm 1921. Đây cũng là năm thống chế Joseph Joffre (Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp) đến thăm Đông Dương và có mặt ở Sài Gòn cuối năm 1921, và ở bên trái của hình này là một cổng chào được Contnental Palace dựng trên đường Catinat để chào đón ông thống chế quân đội này.
Bên phải hình là khách sạn hạng sang đầu tiên của Nam Kỳ – Continental Palace – được khánh thành vào giữa năm 1880, gần như cùng lúc với nhà thờ Đức Bà, và vẫn còn cho đến nay sau hơn 140 năm.
Khách sạn hạng sang này đã sang tay qua nhiều chủ ngay từ khi nó được đưa vào vận hành, và vào thời điểm chụp hình này (khoảng cuối năm 1921, đầu năm 1922), Continental Palace thuộc sở hữu của công tước De Montpensier, người đã bỏ tiền xây dựng một dinh thự nổi tiếng ở Phan Thiết mà sau này thường được gọi là lầu Ông Hoàng, từng là chốn hẹn hò của thi sĩ Hàn Mạc Tử và nàng Mộng Cầm.
–
Hình ảnh Bến Bạch Đằng thời điểm 100 năm trước, nhìn từ giữa sông Sài Gòn về phía đất liền. Có 2 công trình vẫn còn dấu tích cho đến nay trong hình này là cột cờ thủ ngữ và trụ sở Quan Thuế (tòa nhà Wang Tai).
Cột cờ Thủ Ngữ được xây dựng từ năm 1865, trên nền cũ của dinh quan thủ ngự chuyên chăm lo về thương chính của nhà Nguyễn, ban đầu được đặt tên là Mât des Signaux. Phần chân cột cờ có kiến trúc độc đáo hình ngôi sao tám cánh như mặt bằng thành Gia Định xưa (thành Bát quái) gồm 3 tầng giật cấp. Thủ Ngữ có ý nghĩa là điểm giữ của cảng. Tuy nhiên cũng có tài liệu cho rằng thủ ngữ là ngôn ngữ dấu hiệu bằng tay (với cờ hiệu). Đây là công trình đầu tiên ở Sài Gòn dùng để canh tuần tàu biển và treo cờ để tàu thuyền ra vào cảng biết nên vào ngay hay chờ đợi.
–
Hình ảnh công trường Lam Sơn 100 năm trước, lúc này mang tên là Place Francis Garnier, đặt theo tên một nhà thám hiểm, đồng thời là sĩ quan Pháp đã chỉ huy đánh chiếm Hà Nội năm 1873. Chính giữa công trường vào thời điểm này có tượng của Francis Garnier, được chính quyền đặt tại đây từ năm 1910, sau đó bị dỡ bỏ năm 1955.
Bên trái hình này là một quán cafe bên trong dãy nhà thương mại, nơi mà sau đó sẽ bị phá bỏ để mọc lên tòa nhà EDEN.
Bên phải hình này là một trong những nơi bán xe hơi (auto-hall) đầu tiên của Sài Gòn, thuộc sở hữu của nhà tư sản Pháp – Emile Bainier. Ông Bainier đến lập nghiệp ở Sài Gòn vào năm 1908, ông là người tiên phong đi vào thị trường mới lúc bấy giờ là buôn bán xe hơi ở Sài Gòn, khi đó vừa mới bắt đầu phổ biến trên thế giới, còn ở Đông Dương thì vẫn rất sơ khai. Năm 1909, đích thân ông Bainier đã lái xe buýt để giới thiệu phương tiện chuyên chở công cộng này cho nhiều quan chức và nhân viên chính quyền trên đường phố Sài Gòn. Không lâu sau, ông mở 2 auto-hall – cửa hàng bán xe hơi ở số 21 Bonard và số 100-102 Charner , là vị trí trong hình bên trên.
Auto-hall này rất thành công và đắt hàng, công ty của Bainier xây thêm auto-hall ở đối diện chéo qua bên kia Bùng Binh Bồn Kèn, tức vị trí khách sạn REX ngày nay, trở thành auto-hall lớn nhất vùng viễn đông lúc đó, là hình bên dưới đây, cũng được chụp vào 100 năm trước:
Ông Bainier mất năm 1941 tại Sài Gòn, vợ con của ông tiếp tục việc kinh doanh đến năm 1953 thì trở lại Pháp, khi đó vợ chồng hoàng thân Ưng Thi (cháu nội của Tùng Thiện Vương) và Nguyễn Thị Nguyệt Nga mua lại tòa nhà Bainier trong ảnh bên trên để xây khách sạn REX, bên trong có REX cinema – được xem là rạp chiếu phim hiện đại nhất Đông Nam Á thời bấy giờ.
Hình ảnh bên trên có thể thấy có chiếc xe điện nội thành (tramway) đang đi tuyến Sài Gòn – Hóc Môn, ngang qua bùng binh Bồn Kèn (góc ngã tư Charner – Bonard, nay là Nguyễn Huệ – Lê Lợi). Trong hình này, bùng binh Bồn Kèn là một cái bậc hình bát giác nằm ở bìa phải. Ở ngay bùng binh có một trụ điện, dẫn dây điện để cấp điện cho tramway.
Theo học giả Vương Hồng Sển, vào thời điểm chụp hình này (thập niên 1920), tại bùng binh này, các lính Pháp thường đến đây thổi kèn trỗi nhạc Tây cho người dân thưởng thức vào mỗi buổi chiều, nên dân chúng gọi nó là “Bùng binh Bồn Kèn”.
–
Người chụp hình này đang đứng trên đầu cầu Mống chụp xuống con đường dẫn lên cầu Mống. Đây là cây cầu cổ xưa nhất Sài Gòn vẫn còn giữ được kiến trúc ban đầu cho đến nay, được xây khá cao để cho tàu thuyền qua lại, nên ở 2 đầu có lối đi lên. Ngày nay cầu Mống vẫn còn, người ta vẫn làm lối đi lên cầu, nhưng đó là bậc thang để cho người đi bộ đi lên, chứ xe không đi qua được.
Đường lên cầu Mống nối với con đường dọc theo rạch Bến Nghé, ngày nay là đại lộ Võ Văn Kiệt, trước đó vốn quen thuộc với cái tên Bến Dương Dương từ năm 1955 đến tận những năm 2000.
Thời điểm chụp hình này, tên đường là quai de Belgique, người Việt gọi là bến Bỉ Quốc. Thời Pháp thuộc, những con đường dọc theo sông Sài Gòn và các kênh rạch như rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ, kênh Đôi, kênh Tẻ… thường đặt tên là “quai”, tiếng Pháp là bến sông, ngoài quai de Belgique còn có quai Le Myre de Villers, quai de l’Argonne, Quai de Mytho, quai de Gaudot, quai de Foukien… Sau năm 1955, khi các tên đường được Việt hóa thì đều đặt tên theo nguyên tắc đó, từ đó có các tên đường Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, Bến Hàm Tử, Bến Vân Đồn, Bến Lê Quang Liêm…
Trở lại với con đường xuất hiện trong hình này, trước khi mang tên quai de Belgique thì người Pháp từng gọi nó là đường Arroyo Chinois, và trong các bản đồ thời Pháp từ cuối thế kỷ 19 thì rạch Bến Nghé đều được ghi tên là Arroyo Chinois (nghĩa là Rạch Tàu – hoặc rạch người Hoa), vì vậy ban đầu con được đi dọc theo rạch cũng được mang tên này. Đến tận năm 1955 thì các tấm bản đồ Sài Gòn mới ghi tên Việt là rạch Bến Nghé.
Cây cầu bắc qua rạch trong hình này là cầu Khánh Hội, được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20 và ban đầu được người Pháp gọi tên là Le pont tournant, nghĩa là “cầu quay”. Cầu có tên gọi này do có thiết kế độc đáo với nhịp giữa có thể quay ngang để tàu thuyền qua lại dễ dàng. Ban đầu, cầu Khánh Hội không phải đi qua bến Bạch Đằng như hiện nay, mà nó bắt ngang từ đường Jean-Eudel (nay là đường Nguyễn Tất Thành) qua đường D’Adran (tức Võ Di Nguy sau này, nay là Hồ Tùng Mậu).
–
Trước khi chợ Bình Tây (chợ Quách Đàm) được đại phú gia Quách Đàm cho xây dựng năm 1938, thì ngôi chợ lớn nhất ở Chợ Lớn chính là ngôi chợ trong hình này, là một trong những ngôi chợ quy mô đầu tiên của Sài Gòn – Chợ Lớn nằm ở trung tâm của khu vực Chợ Lớn, nơi gặp nhau của những con đường lớn là Tổng Đốc Phương (nay là Châu Văn Liêm), quai de Gaudot (sau 1955 là đường Khổng Tử, nay là đường Hải Thượng Lãn Ông).
Thời xưa, Sài Gòn – Chợ Lớn chủ yếu giao thương “trên bến dưới thuyền”, nên Chợ cũ này được xây ở ngay đầu con rạch dẫn từ kênh Tàu Hủ vào, gọi là rạch Chợ Lớn. Đến thập niên 1920, con rạch này bị lấp, chợ Bình Tây được xây dựng và trở thành trung tâm mới của Chợ Lớn, dần dần ngôi chợ cũ của Chợ Lớn này được giải tỏa và được cải tạo thành bưu điện, trở thành Bưu Điện Chợ Lớn vẫn còn đến ngày nay. Cho đến hiện tại, phần mặt tiền của bưu điện vẫn còn mang những dấu tích, nét xưa của ngôi chợ được xây từ thế kỷ 19 này.
–
Hình ảnh Opera House (Théâtre municipal) 100 năm trước, ngày nay thường được gọi bằng cái tên Nhà hát Thành Phố.
Opera House được khởi công xây dựng năm 1898, hoàn thành trong 2 năm và khánh thành vào những khoảnh khắc đầu tiên của thế kỷ 20.
Tòa nhà này trải qua nhiều biến động theo thời cuộc. Ngay từ khi chỉ mới là dự án, nó không được chính những người Pháp ở Sài Gòn ủng hộ, đã có nhiều ý kiến phản đối vì quy mô của nó tương đối nhỏ (chưa đầy 600 ghế) nhưng chi phí lại quá lớn (2 triệu rưỡi francs). Mặc dù vậy ông thị trưởng lúc đó là Paul Blanchy quyết tâm xây dựng vì cho rằng một thành phố lớn như Sài Gòn phải có nhà hát lớn để hoạt động văn hóa cho đúng với vị thế.
Sau khi người Pháp thất bại và rút khỏi Đông Dương, Opera House được chính quyền đệ nhất cộng hòa cho sửa chữa lại phần mặt tiền, đổi công năng lại thành trụ sở Quốc Hội, từ một thánh đường nghệ thuật trở thành nơi sinh hoạt nghị trường. Sau khi đệ nhất cộng hòa sụp đổ, quốc hội bị giải tán, từ cuối năm 1963 đến năm 1967, tòa nhà này được gọi tên là “Nhà Văn Hóa”. Năm 1967, nền đệ nhị cộng hòa được thiết lập, Opera House lại trở thành trụ sở của Hạ Nghị Viện cho đến năm 1975, trước khi nó được trả lại công năng ban đầu là Nhà hát – Nơi trình diễn nghệ thuật cho đến nay.
–
Con đường này khi mới xây dựng mang tên là du Gouveneur, tiếng Pháp nghĩa là Thống đốc. Sở dĩ mang tên này vì con đường đi ngang qua Dinh Thống Đốc Nam Kỳ (tức dinh Gia Long, nay là bảo tàng thành phố). Sau đó con đường này đổi tên thành Grandière (theo tên của một thống soái Nam Kỳ vào thế kỷ 19). Từ năm 1952, dinh Thống Đốc Nam Kỳ được quốc trưởng Bảo Đại đổi tên thành dinh Gia Long, và con đường mang tên Grandière cũng được đặt tên là đường Gia Long. Từ năm 1955-1976, con đường này vẫn mang tên này, trước khi đổi tên thành Lý Tự Trọng cho đến nay.
Tòa nhà bên phải hình là ở số 229 – Catinat, là trụ sở của Enregistrement et Domaines (Sở Trước bạ và Nhà đất). Thời kỳ 1955-1975, tòa nhà này vẫn giữ chức năng cũ, là Sở Trước Bạ của VNCH, vẫn ở số 229, tên đường đổi thành đường Tự Do. Ngày nay, tòa nhà này vẫn còn, là trụ sở của Chi cục bảo vệ môi trường ở địa chỉ 227 – Đồng Khởi.
Bên trái hình này là tòa nhà nổi tiếng thường được gọi bằng cái tên Dinh Thượng Thơ, tiếng Pháp gọi là Hôtel de L’Interieur, được xây vào năm 1864 (5 năm sau khi Pháp chiếm được Nam Kỳ) là trụ sở Nha giám đốc Nội vụ, có vai trò điều hành trực tiếp của các thanh tra sự vụ bản xứ về toàn bộ vấn đề dân sự, tư pháp và tài chính của thuộc địa.
Đến năm 1888, chức năng của cơ quan này được nhập vào Thơ Ký Thống đốc Nam kỳ ở góc đường Catinat – d’Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) sát bên Dinh xã Tây (Tòa Đô Chánh), bản đồ năm 1890 cho thấy một tòa nhà quy mô lớn hơn được xây dựng như hiện nay, thành một khối nhà liền kề với Dinh Xã Tây. Vào đầu thế kỷ 20, cơ quan này còn có tên là Văn phòng Chính phủ.
Từ sau năm 1955, nơi này là trụ sở Bộ Kinh tế của chính quyền VNCH. Ngày nay, tòa nhà này nằm ở địa chỉ số 59-61 Lý Tự Trọng, trụ sở của Sở Thông Tin – Truyền Thông.
Sau đây là ảnh Dinh Thượng Thơ cùng chụp vào thời điểm 100 năm trước, mặt tiền nằm trên đường Grandière.
Khi mới được xây dựng (năm 1864), Dinh Thượng Thơ chỉ là một công trình khiêm tốn, và được được xây dựng thêm trong nhiều năm sau đó, đến năm 1881 mới mang kiến trúc hình dạng chữ U vẫn còn cho đến ngày nay.
Theo bài viết của tác giả Phúc Tiến trên báo Người Đô Thị, Dinh Thượng Thơ do kiến trúc sư Marie-Afred Foulhoux thiết kế. Ông cũng là tác giả thiết kế các công thự đồ sộ chung quanh tòa nhà này, như tòa Pháp Đình (1885), Dinh Thống đốc Nam Kỳ 1890), Bưu điện (1891). Hơn thế nữa ông còn là Giám đốc Sở Công chánh Nam Kỳ, sau đó được bổ nhiệm làm Kiến trúc sư trưởng của thành phố.
Do vậy, tòa nhà Dinh Thượng Thơ và các công trình kể trên của Foulhoux đều mang phong cách dinh thự Pháp thế kỷ 19, nhưng vẫn có đường nét sáng tạo, kết hợp với thực tế xứ nhiệt đới. Thiết kế cổng vào tòa nhà chính, các cột trang trí tầng lầu, cổng ngoài sân và cửa đúc bằng gang, hàng rào sắt đều thể hiện tính sang trọng, quý phái. Tuy nhiên, tòa nhà có sân rộng, nhiều vòm cửa và cửa sổ lớn, tường rào không xây kín, tạo ra cảm giác thân thiện.
Hình ảnh: manhhai flickr
Bài: Đông Kha – chuyenxua.net
NHỮNG JI TÊN XƯA ĐỀU CẢM….