Bộ sưu tập ảnh hiếm Hà Nội chụp trước năm 1954

Hà Nội là thành phố nhượng địa của Pháp suốt từ năm 1883 tới năm 1945. Sau ngày 2/9/1945, chính phủ VNDCCH quản lý thành phố Hà Nội trong một thời gian ngắn, trước khi Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương năm 1946. Đó là thời điểm chính quyền VNDCCH rút về căn cứ địa ở Việt Bắc để tổ chức kháng chiến, từ đó Hà Nội và các đô thị lớn trở lại thuộc quyền quản lý của thực dân Pháp.

Như vậy thời kỳ 1946-1954, trên thực tế thì Pháp quản lý Hà Nội, với danh nghĩa là các tổ chức hoặc chính quyền do Pháp bảo trợ hoặc đứng ra thành lập, đó là:

Ủy ban Lâm thời Hành chánh và Xã hội Bắc Kỳ, thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1947. Sau đó Ủy ban này đổi tên thành Hội đồng An dân Bắc Kỳ, đây là tổ chức hành chính quản lý các thành phố ở miền Bắc.

Ngày 27 tháng 5 năm 1948, Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam (tiếng Pháp: Gouvernement central provisoire du Viêt Nam) được thành lập, cũng dưới sự bảo trợ của Pháp, quản lý hai xứ “bảo hộ” của Pháp trước đây là Bắc Kỳ và Trung Kỳ (khác với xứ thuộc địa Nam Kỳ).

Năm 1949, Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam (Bắc Kỳ + Trung Kỳ) sáp nhập vào Chính phủ Nam Kỳ Quốc để thành lập Quốc Gia Việt Nam, với quốc trưởng là Bảo Đại. Đây là chính phủ thuộc Liên hiệp Pháp, được quốc tế công nhận, nhưng thực tế thì phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp và có ít quyền tự chủ.

Như vậy, từ 1949-1954, chính quyền Quốc Gia Việt Nam quản lý toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, trong đó có Hà Nội, nhưng đó là chỉ trên danh nghĩa, vì các vùng nông thôn đã thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh, còn các đô thị thì dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Pháp. Sử ngày nay gọi giai đoạn 9 năm 1946-1954 này là “thời kỳ tạm chiếm”.

Sau đây mời các bạn xem lại bộ ảnh Hà Nội vào thời kỳ tạm chiếm, và thời kỳ đầu thập niên 1940:

Một số hình ảnh Hà Nội được chụp trong thập niên 1940, hiện được lưu giữ tại Thư viện Hiệp hội Địa lý Hòa Kỳ, và được đăng tải trên trang thư viện số của Đại học Wisconsin-Milwaukee của Mỹ (UWM Libraries’ Digital).

Bộ ảnh này sẽ cho chúng ta thấy một diện mạo rất khác về một Hà Nội – thủ đô của liên bang Đông Dương lúc đó.

Thời điểm những tấm hình này được ghi lại, tình hình Hà Nội nói riêng và Đông Dương nói chung đang rất phức tạp. Về mặt hành chính thì thực dân Pháp vẫn kiểm soát, nhưng đế quốc Nhật đã nhảy vào cuộc chiến ở Đông Dương.

Nước Pháp ở chính quốc lúc này đã bị suy yếu vì thế chiến 2, chính phủ Vichy (chính quyền thân Đức Quốc Xã) được thành lập, tiếp quản hầu hết các lãnh thổ thuộc địa ở hải ngoại, nhưng lúc này chính quyền ở thuộc địa đã bị cắt hoàn toàn khỏi sự giúp đỡ và nguồn tài trợ từ chính quốc. Năm 1940, Toàn quyền Decoux phải nhượng bộ để Nhật triển khai quân Nhật trên lãnh thổ Đông Dương thuộc Pháp, đế quốc Nhật Bản dần dần từng bước kiểm soát vùng này.

Góc phố Henri Rivière – Fourès (nay là Ngô Quyền – Đinh Lễ)

Theo Hiệp ước Tokyo 1940 thì Pháp chấp nhận hầu hết các yêu sách của Nhật, trong đó có các điều khoản liên quan đến việc Nhật có quyền chi phối nền kinh tế Đông Dương để thâu tóm miền Hoa Nam.

Hiệp ước Tokyo 1941, Pháp tiếp tục phải nhượng bộ Nhật, ấn định Nhật là nước hưởng những ưu đãi đặc biệt tại Đông Dương. Theo đó, Nhật được sử dụng mọi phương tiện giao thông, kiểm soát hệ thống đường sắt, hàng hải ở các hải cảng ở Đông Dương với trọng tải 200.000 tấn. Nhật Bản cũng đòi Pháp phải dành 50% giá trị hàng hóa nhập khẩu và 15% xuất khẩu của Đông Dương cho các công ty thương mại của Nhật. Ngoài ra từ năm 1940 đến 1945, chính quyền thực dân Pháp phải nộp cho Nhật Bản một số tiền là 723.786.000 đồng để Pháp giữ chủ quyền.

Mậu dịch quốc tế của Đông Dương trong các năm 1942–1943 hầu hết các mặt hàng xuất khẩu như than, kẽm, cao su, xi măng đều chở sang Nhật. Về quân sự, Pháp phải có trách nhiệm hỗ trợ Nhật khi Nhật tham chiến. Về chính trị quốc nội, Nhật từng bước giảm thiểu ảnh hưởng chính trị của Pháp và các phe nhóm thân Pháp.

Phố cổ Hà Nội năm 1940

Song song với việc cả Pháp và Nhật cùng có mặt tại Đông Dương, lúc này mặt trận Việt Minh cũng ra đời vào năm 1941, với mục đích được công bố là “liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật – Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Ngoài Đảng Cộng Sản, trong thời gian đầu có các tổ chức tham gia Việt Minh lần lượt gồm Đảng Cách mệnh An Nam, Việt Nam Quốc dân Cách mệnh Đảng, Đảng Quốc gia Cách mệnh An Nam, Phục quốc Hội, Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội, Đảng Đại Việt Quốc xã, Đảng Hưng Việt, Đảng Đại Việt, Việt Cách….

Vì vậy, có thể nói thời điểm nửa đầu thập niên 1940 (thời điểm các hình trong bài này được chụp), tình hình chính trị ở Hà Nội rất phức tạp.

Trước sự thất thế rõ rệt của Pháp ở Đông Dương, một điều tất yếu đã xảy ra sau đó là Nhật tiến hành đảo chính Pháp tại Đông Dương năm 1945, dựng nên chính quyền thân Nhật là chính phủ Trần Trọng Kim với quốc trưởng là cựu hoàng Bảo Đại.

Ngã tư Paul Bert – Henri Riviere (nay là Tràng Tiền – Ngô Quyền)

Một số hình ảnh ở phố Paul Bert ở phía hồ Hoàn Kiếm:

Lúc này các biển tên đường đều để 2 tên, tiếng Pháp và tiếng Việt (Paul Bert – Tràng Tiền). Bên phải hình này là tòa nhà Taverne Royale

Hình ảnh tòa nhà Taverne Royale (nằm ở đầu phố Tràng Tiền ngày nay), ngay hồ Hoàn Kiếm.

Trước khi mang tên Taverne Royale, tòa nhà này tên là Lacaze, trải qua nhiều lần xây sửa và thay đổi chức năng khác nhau. Ban đầu tòa nhà có kiến trúc tân cổ điển, nhưng tới cuối thập niên 1930 được sửa lại theo phong cách Art deco thịnh hành thời đó.

Cảnh sát công lộ đang điều khiển giao thông ở góc đường Paul Bert – Francis Garnier (nay là Tràng Tiền – Đinh Tiên Hoàng), Taverne Royale nằm ở góc đường

Từ phố Paul Bert nhìn về phía bờ hồ. Bên phải hình là ngã 3 phố Paul Bert – Boissière, phía xa là tòa nhà Taverne Royale

Hình ảnh Eden Cinema khi nó vừa được cải tại mặt trước theo kiến trúc Art Deco. Trước đó không lâu, rạp chiếu phim này mang kiến trúc tân cổ điển rất đẹp, mang tên là Cinema Palace.

Tuy nhiên sang tới năm 1940, theo trào lưu cách tân kiến trúc, các nhà quản lý đô thị ở khắp Đông Dương đổi lại diện mạo một số công trình công, thiết kế theo kiến trúc Art deco, và diện mạo của Cinema Palace cũng bị đổi thành như trong hình. Cũng từ năm này, tên rạp chiếu phim này cũng đổi thành Eden Cinema.

Một kiến trúc sư người Việt nổi tiếng là Hoàng Như Tiếp đã cộng tác với một số kiến trúc sư người Pháp được giao nhiệm vụ thiết kế chỉnh trang mặt đứng rạp chiếu phim Eden. Năm 1946, Hoàng Như Tiếp đưa gia đình rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, là kiến trúc sư chính xây nhiều công trình phục vụ kháng chiến. Tại chiến khu, ông sáng lập nên Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam, tiền thân của Hội Kiến trúc sư Việt Nam hiện nay. Năm 1957, ông cũng là người chủ trì cải tạo lại tòa nhà Godard ở đầu phố Tràng Tiền để trở thành cửa hàng Bách hóa Tổng hợp (nay là Tràng Tiền Plaza).

Sát bên cạnh Eden Cinema là cơ sở của Nhà xuất bản G. Taupin et Cie như trong hình bên dưới.

Sau đó không lâu, Nhà xuất bản này chuyển trụ sở, tòa nhà trở thành tiệm bách hóa MAGASIN PACIFIC, đồng thời khi đó mặt tiền của nó cũng được sửa lại, san phẳng giống như Eden bên cạnh.

Hình ảnh hoa văn trên cửa của nhà xuất bản:

Khách sạn và cafe Cafe de la Paix ở só 33 Paul Bert (nằm đối diện bên kia đường của rạp cine Palace/Eden). Phía cuối đường (bên phải hình) là tòa nhà Godard

Hình ảnh trên phố Paul Bert (nay là Hàng Khay). Thời Pháp, phố Paul Bert bao gồm cả Hàng Khay và Tràng Tiền ngày nay. Tấm băng rôn quảng cáo vé số Đông Dương, được mở từ năm 1936
Phố Hàng Khay xưa
Cổng Dinh Toàn Quyền (nay là Phủ Chủ tịch nước), từ bên trong Dinh nhìn ra Đại lộ Cộng Hòa (avenue de la République – nay là đường Hoàng Văn Thụ)

Một số hình ảnh Nhà hát Lớn năm 1940 trên phố Paul Bert, nay là Tràng Tiền:

Đây là là công trình quan trọng nhất trên phố Paul Bert, được khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1911, theo mẫu Nhà hát Opéra Garnier ở Paris nhưng có quy mô nhỏ hơn và sử dụng các vật liệu phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương.

Ngay từ khi hoàn thành, Nhà hát Lớn đã giữ vai trò là một trung tâm văn hóa quan trọng của thủ đô, nơi diễn ra thường xuyên các hoạt động văn hóa, biểu diễn nghệ thuật suốt hơn 1 thế kỷ qua.

Hình ảnh trụ sở hãng xe hơi Ford ở góc đường Laubarède – Bobillot (góc Đặng Thái Thân – Lê Thánh Tông ngày nay):

Tòa nhà này ngày nay vẫn còn, là trụ sở Mercedes-Benz Hoàn Kiếm.

Một tòa nhà được chèn bằng cuộn nứa để tránh bom. Có lẽ thời điểm này là chống bom của phe đồng minh
Bảng tên phố, có ghi tên Pháp lẫn Việt (phố Hàng Đào). Gần nơi này có hầm trú ẩn tránh bom

Tấm bảng này nằm ở góc đường Đồng Khánh – Paul Bert (nay là Hàng Bài – Hàng Khay)

Một số hình ảnh cầu Doumer (nay là cầu Long Biên):

Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng được Toàn quyền Đông Dương Doumer cho xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19 và khánh thành năm 1902. Thời điểm đó, đối với người An Nam, việc xây dựng một cây cầu kỳ vĩ như vậy bắc qua một con sông rộng và sâu như sông Hồng là việc làm không tưởng.

Công trình đồ sộ này có chiều dài 1.680 mét tính từ hai mố biên bằng đá, gồm 19 nhịp chắc chắn (tổng cộng có 20 trụ cầu và mố biên) được dựng trên các dầm thép. Trụ cầu cao 43,5 mét: 30-32 mét trong lòng đất (dưới mực nước thấp nhất của sông Hồng vào mùa cạn) và 13,5 mét từ mặt nước. Vì lòng sông rộng nên móng được làm trong môi trường khí nén.

Một số hình ảnh nhà máy công ty xăng dầu Texaco của Mỹ ở Hà Nội:

Công ty Texaco có mặt ở Hà Mội từ rất sớm, là 1 trong 3 hãng xăng lớn có mặt ở Hà Nội sớm nhất, cùng với Shell và Socony.

Xe chở xăng

Một số hình ảnh chụp Phố cổ Hà Nội năm 1940:

Đây là hình phố Cầu Gỗ trong phố cổ ở Hà Nội nối từ cuối Hàng Thùng tới quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, ngày xưa xưa nơi đây tập trung nhiều hàng bán sơn và các loại dầu cung cấp cho Hà Nội.

Phố Cầu Gỗ là con phố khá lâu đời, có từ thời kinh thành Thăng Long có 36 phố phường thế kỷ 15. Phố được xây trên nền đất của hai thôn cổ là Hương Minh và Nhiễm Thượng, đều thuộc tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương.

Phố được đặt tên là Cầu Gỗ vì con phố có một cây cầu bắc qua con lạch nhỏ nối hai hồ Thái Cực (hay còn gọi là hồ Hàng Đào, đã bị Pháp lấp đi để xây nhà) và Hoàn Kiếm lại với nhau. Thời cổ, đây là phố cho các học trò trọ xung quanh đến ăn cơm. Đến thời Pháp thuộc, phố mang tên Rue du Pont en bois (nghĩa vẫn là Cầu Gỗ), là con phố chính của Hà Nội cổ. Các ngôi nhà trên phố lúc đấy đều được xây theo kiểu cổ, một tầng và có gác xép.

Tàu điện trên phố Hàng Đào, từng được xem là con đường tơ lụa của đất Thăng Long. Từ thế kỷ 15, 16 người dân ở nhiều nơi, đặc biệt từ Đan Loan Hải Dương, tới Hà Nội đã lập nên phường Đại Lợi chuyên nghề nhuộm tơ lụa. Hàng Đào lúc bấy giờ trở thành một trung tâm tơ lụa sầm uất của kinh thành Thăng Long.

Phố Hàng Đào, đường ngang bên trái là phố Hàng Gai (Rue de Chanvre), bên phải là phố Cầu Gỗ

Thời Pháp thuộc, phố mang tên là Rue de la Soie (phố bán lụa). Khi đó dọc phố có lắp đặt đường ray tàu điện bánh sắt chạy từ bờ hồ Hoàn Kiếm đi vườn hoa Hàng Đậu. Ngày nay đường ray tàu điện không còn nữa. Khoảng năm 1925, vải tây thắng thế, quá nửa phố cho thuê bán vải tây, hàng truyền thống vắng hẳn. Rồi dần dần phố không còn bán vải nhuộm màu nữa, các chủ hàng có nhiều vốn chuyển sang các loại hàng cao cấp, xa xỉ.

Trong khoảng 100 năm, hình ảnh quen thuộc của phố Hàng Đào là tuyến đường sắt đi chính giữa lòng đường.

Phố Hàng Đào có 2 dãy nhà cổ rất đẹp, cũng là nơi có nhiều hình ảnh nhất của Hà Nội được chụp đầu thế kỷ 20.

Bên trên là hình ảnh Tòa nhà Cinema Trung Quốc (nay là rạp Chuông Vàng) ở góc đường Rue Géraud – Rue des Changeurs (nay là phố Tạ Hiện – Hàng Bạc).

Rạp này được xây dựng năm 1925, ban đầu mang tên Cải lương Hý viện của gánh Nhật Tân Ban đồng ấu. Sau đó, những người Hoa ở phố Tạ Hiện mua lại rạp, đổi tên thành Cinéma Trung Quốc, chuyên nhập phim Hong Kong về chiếu.

Thời điểm đó, ban ngày người Hoa chiếu phim Hongkong, buổi tối thì nơi này công diễn cải lương do một gánh cải lương tiến bộ mang tên là Tố Như – Là tên của một gánh cải lương tiến bộ (lấy tên theo bút danh của đại thi hào Nguyễn Du). Gánh Tố Như do một số trí thức như Lê Hứa, cha con Trần Viết Hinh – Trần Viết Long… tập trung một số nghệ sĩ tại Gia Hương Canh lập ra vào ngày 17/5/1941 (Thời gian sau đó, Trần Viết Long chính là ông chủ đoàn Kim Chung lừng danh).

Sau một tuần ra mắt tại rạp Olympia (tức rạp Hồng Hà ngày nay), đoàn Tố Như chính thức đỏ đèn hằng đêm tại Cinema Trung Quốc, công diễn những vở tuồng mang tinh thần yêu nước của hai soạn giả Sĩ Tiến và Phan Ngọc Khôi như “Lục Vân Tiên”, “Hai Bà Trưng”, “Phan Đình Phùng”, bất chấp thời đó vẫn đang dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Tư đó, rạp hát này trở nên nổi tiếng và người ta gọi luôn nơi này là rạp Tố Như, dù lúc đó rạp đã được đổi tên thành Văn Lang.

Vào năm 1947, rạp Tố Như/Văn Lang chính là nơi diễn ra lễ tuyên thệ “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của Trung đoàn thủ đô. Thời gian sau đó, rạp mang tên là Văn Lang, rồi mang tên rạp Kim Chung trong nhiều năm, là nơi đóng đô của đoàn Kim Chung nổi tiếng của vợ chồng Trần Viết Long – Kim Chung. Ngoài Kim Chung, một thành viên nổi tiếng trong đoàn là Kim Xuân, chính là mẹ của nghệ sĩ Như Quỳnh hiện nay.

Từ năm 1956 đến nay rạp chính thức mang tên là rạp Chuông Vàng. Lúc đó vợ chồng Trần Viết Long – Kim Chung đã vào Nam lập ra gánh hát Kim Chung – Tiếng chuông vàng thủ đô, còn vợ chồng Tiêu Lang – Kim Xuân ở lại quản lý đoàn Kim Chung ở Hà Nội, đổi tên thành đoàn Chuông Vàng, và rạp hát này cũng đổi tên thành Chuông Vàng. Thời gian sau đó, đoàn Kim Phụng hợp nhất với đoàn Chuông Vàng thành Nhà hát cải lương Hà Nội. Ngày nay, rạp hát này vẫn mang tên Chuông Vàng – trụ sở của Nhà hát Cải Lương Hà Nội.

Bên trên là rue du Sel (nay là phố Hàng Muối) ở rìa phố cổ. Chỗ này đi thằng tới 1 đoạn rẽ lệch trái sẽ qua phố Hàng Tre (rue des Bambous).

Bên trái là Hàng Muối, bên phải là phố Rue du Maréchal Pétain (nay là phố Nguyễn Hữu Huân). Nhà mang biển hiệu hãng xăng TEXACO trong hình hiện nay là cafe Phúc Long ở vòng xoay cầu Chương Dương.

Hình dưới đây là hào trú ẩn chống bom, gần bến cầu Bãi Cháy, ngày nay là khu vực vòng xoay cầu Chương Dương.

Tấm bảng chỉ nơi tới hầm trú ẩn

 

Viết một bình luận